Đa dạng hóa thị trường công nghiệp và những cơ hội mới cho nhà đầu tư Châu Á Thái Bình Dương
(DNTH) - Khu vực Châu Á Thái Bình Dương từ lâu đã khẳng định mình là “công xưởng của thế giới”, với vai trò quan trọng của Trung Quốc đại lụ...
https://www.doanhnhanthuonghieu.com.vn/2023/12/a-dang-hoa-thi-truong-cong-nghiep-va.html
(DNTH) - Khu vực Châu Á Thái Bình Dương từ lâu đã khẳng định mình là “công xưởng của thế giới”, với vai trò quan trọng của Trung Quốc đại lục. Quốc gia này chiếm gần 15% sản lượng xuất khẩu toàn cầu, có liên kết thương mại với hơn 200 thị trường trên toàn cầu và là đối tác thương mại hàng đầu của hơn 120 nước trong số đó.
Châu Âu và Bắc Mỹ đã là đối tác thương mại lớn nhất của Châu Á Thái Bình Dương, lần lượt chiếm 16% và 15% giá trị xuất khẩu vào năm 2022. Tuy nhiên, trong khi giá trị đồng Đô la tăng lên, tỷ trọng xuất khẩu tương ứng lại giảm từ 19% và 23% vào năm 2002. Xu hướng giảm dự kiến sẽ tiếp tục trong tương lai, khi tốc độ tăng trưởng tiêu dùng ở Châu Âu và Bắc Mỹ tụt hậu so với các thị trường đang phát triển nhanh hơn và do xu hướng near-shoring – gia công sản xuất gần nước đặt hàng.
Ngược lại, thương mại nội vùng giữa 13 nền kinh tế hàng đầu Châu Á Thái Bình Dương đã tăng từ 820 tỷ USD năm 2000 lên hơn 4,4 nghìn tỷ USD vào năm 2022 – tăng gấp 5 lần với thương mại nội vùng chiếm khoảng một nửa tổng kim ngạch xuất khẩu của các thị trường này.
Bên cạnh đó, Châu Á Thái Bình Dương sẽ đạt mức tăng trưởng dân số lớn nhất theo khu vực và thống trị tầng lớp dân số trung lưu thế giới, chiếm 89% tổng mức tăng trưởng toàn cầu cho đến năm 2030. Nói tóm lại, khu vực này sẽ ngày càng chú trọng phục vụ chính dân số của mình và chuỗi cung ứng sẽ cần được thiết kế lại để tận dụng cơ hội này.
Về phía Trung Quốc đại lục, nước này đã đạt được những tiến bộ nhanh chóng trong lĩnh vực sản xuất. Cùng với chính sách của chính phủ như “Made in China 2025” và sự tập trung nhiều hơn vào tính bền vững, đã thúc đẩy sự chuyển đổi rõ rệt sang các đơn đặt hàng sản xuất hàng hóa cao cấp, giúp Trung Quốc đại lục chiếm vị trí dẫn đầu trong ngành sản xuất pin xe điện, quang điện và cảm biến lượng tử.
Sự tiến triển này ở Trung Quốc đại lục đang mang đến các cơ hội cho những nước láng giềng trên toàn khu vực bắt đầu vào giữa những năm 2000. Điều này ban đầu được thúc đẩy bởi áp lực chi phí, bởi những thị trường này có chi phí lao động và bất động sản tương đối rẻ hơn, vốn là những yếu tố đặc biệt quan trọng đối với phân khúc sản xuất hàng hóa bậc thấp. Tính theo USD, giá thuê khu công nghiệp ở khu vực Hà Nội mở rộng rẻ hơn 40% so với các thành phố cấp 1 ở Trung Quốc đại lục, trong khi thị trường Ấn Độ rẻ hơn 50%.
Tác động của sự chuyển đổi này hiện đang trở nên rõ ràng hơn, khi lần đầu tiên sau một thập kỷ, Trung Quốc dự kiến sẽ sớm chiếm dưới 50% lượng hàng nhập khẩu giá rẻ vào Mỹ vào năm 2023. Việt Nam là nước hưởng lợi chính khi khối lượng xuất khẩu sang Mỹ tăng gấp đôi trong 5 năm qua và tăng gấp ba trong thập kỷ qua, mặc dù Ấn Độ và Malaysia cũng tăng tỷ trọng xuất khẩu.
Sự tăng trưởng của ngành sản xuất tại các thị trường này không chỉ nhờ vào chi phí thấp hơn. Nhu cầu đa dạng hóa chuỗi cung ứng, đặc biệt là do những nút thắt liên quan đến COVID, cũng như chính sách hỗ trợ của chính phủ cũng góp phần vào sự phát triển này. Ở Ấn Độ, chính sách “Sản xuất tại Ấn Độ, sản xuất cho thế giới” của chính phủ Modi là một yếu tố quan trọng làm tăng tỷ trọng của ngành sản xuất trong GDP thông qua việc giảm sự phụ thuộc nhập khẩu và thúc đẩy tăng trưởng xuất khẩu. Việc tăng cường chuyên môn hóa ngành cũng đóng một vai trò không nhỏ trong tăng trưởng. Cùng với nhau, những yếu tố này cho thấy có nhiều lựa chọn để phát triển các trung tâm sản xuất mới trên toàn khu vực.
Khu vực Châu Á Thái Bình Dương có nền tảng tăng trưởng mạnh mẽ nhưng vẫn còn khoảng cách về năng suất giữa khu vực này với cả Châu Âu và Mỹ. Theo Ngân hàng Thế giới, năng suất lao động ở các thị trường mới nổi chỉ bằng dưới 20% so với các nền kinh tế tiên tiến.
Là nhà sản xuất gần 15% lượng hàng xuất khẩu của thế giới, không có gì ngạc nhiên với việc Trung Quốc đại lục sở hữu lực lượng lao động lớn dành riêng cho lĩnh vực công nghiệp. Khoảng 163 triệu nhân viên kho bãi ở Trung Quốc đại lục chiếm 53% tổng số việc làm của ngành ở Châu Á Thái Bình Dương. Khoảng cách rất rõ ràng với Ấn Độ - 20% (60 triệu) và Indonesia - 8% (25 triệu). Bất chấp tốc độ tăng trưởng mạnh ở hầu hết các nước Đông Nam Á và Ấn Độ, lên tới 4% mỗi năm cho đến cuối thập kỷ này, tình hình được dự báo sẽ không thay đổi nhiều.
Kinh nghiệm và sức mạnh lâu đời của Trung Quốc đại lục trong các lĩnh vực sản xuất và hậu cần sẽ khó có thể nhân rộng chỉ sau một đêm. Để bắt kịp, doanh nghiệp ở các khu vực khác sẽ cần nhanh chóng đầu tư vào cả việc xây dựng năng lực con người và tự động hóa.
Khối ASEAN đang nhanh chóng khẳng định mình là trọng tâm tăng trưởng chính trong khu vực Châu Á Thái Bình Dương, thu hút mức đầu tư trực tiếp nước ngoài tốt, dự kiến sẽ đạt mức cao kỷ lục vào năm 2022 là 223 tỷ USD.
Phần lớn sự tăng trưởng này diễn ra khi các tập đoàn có trụ sở tại Mỹ và châu Âu tiếp tục mở rộng và đa dạng hóa hoạt động trong khu vực, mặc dù các nhà sản xuất Trung Quốc cũng tiếp tục mở rộng sự hiện diện của họ. Khu vực phía Bắc của Việt Nam, như Hải Phòng và Hà Nội, đã thu hút đầu tư mạnh mẽ từ các nhà sản xuất Trung Quốc và Hàn Quốc nhờ vị trí gần nhau cũng như khả năng kết nối địa lý mạnh mẽ trong khu vực và toàn cầu. Tuy nhiên, cho đến nay, các doanh nghiệp đang đầu tư ở cấp độ nhỏ lẻ hơn là chuyển đổi hoàn toàn hoạt động sản xuất sang nước khác. Thay đổi theo cách này cho phép duy trì hoạt động liên tục tại các địa điểm hiện có cũng như yêu cầu chi tiêu vốn vừa phải hơn.
Việt Nam là nước được hưởng lợi chính từ các chiến lược sản xuất của “Trung Quốc+” nhờ khoảng cách địa lý và khả năng kết nối khu vực/toàn cầu rộng hơn. Ngoài vị trí chiến lược, Việt Nam còn có lợi thế về chi phí lao động thấp hơn đáng kể so với Trung Quốc. Lợi ích còn đến từ sự kết hợp cân bằng giữa sản xuất có giá trị cao như điện tử và sản xuất có giá trị thấp như may mặc, giày dép và thực phẩm. Ngành sản xuất có giá trị cao dự kiến sẽ tăng trưởng, với việc chính phủ muốn tăng tỷ trọng sản xuất trong nền kinh tế từ 25% lên 30% vào năm 2030 bằng cách thu hút thêm đầu tư vào ngành này. Việt Nam có dư địa để đáp ứng sự tăng trưởng đó nhờ sự tập trung mạnh mẽ vào sản xuất điện tử ở miền Bắc Việt Nam (Hà Nội, Hải Phòng), trong khi miền Nam Việt Nam (Thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương, Đồng Nai) có sự kết hợp giữa thực phẩm, hàng tiêu dùng và điện tử.
Tóm lại, Đông Nam Á đang giành được thị phần xuất khẩu toàn cầu, với tốc độ ổn định. Tuy nhiên, lợi thế của người đi đầu vẫn còn đó và khu vực này sẽ tiếp tục được hưởng lợi từ một số yếu tố xúc tác như tăng trưởng tiêu dùng ngày càng tăng do nhân khẩu học thuận lợi, thương mại khu vực cao hơn do tăng trưởng kinh tế khu vực cũng như các hiệp định thương mại như Hiệp định kinh tế toàn diện khu vực sẽ giúp cắt giảm thuế quan đối với hầu hết hàng hóa được giao dịch giữa các nước thành viên.
Nguyên Minh